Cách gọi Triều_đại

Ai Cập

Các triều đại thuộc Ai Cập cổ đại thường được gọi bằng số, từ 1 đến 30 vào thời nhà Ptolemaios, và sau đó được nối thêm ít nhất đến số 35.

Anh

Các triều đại ở Anh quốc có thể được gọi bằng quốc hiệu như nhà Wessex hoặc bằng họ như nhà Tudor.

Ả Rập

Để gọi triều đại, tiếng Ả Rập có thể dùng:

  • Tiếp đầu ngữ Banu, như Banu Umayyah là triều đại của các con cháu ông Umayyah. Umayyah không hề làm vua, mà chỉ là tổ chung của các khalip nhà Banu Umayyah, thường ghi là nhà Omeyyad hay nhà Umayyad trong các tài liệu tiếng Anh và tiếng Việt.
  • Tiếp vĩ ngữ "iyun", như nhà Abbasiyun là triều đại của các con cháu ông Abbas, thường ghi là nhà Abbasid hay nhà Abbas trong các tài liệu tiếng Anh và tiếng Việt.

Ấn Độ

Các triều đại ở Ấn Độ có thể được gọi bằng quốc hiệu như nhà Hậu Chola, bằng họ như nhà Gupta, bằng tên chủng tộc như nhà Mogul - Mogul là tiếng gọi người Mông Cổ, bằng tước hiệu như nhà Nizam của Hyderabad,…

Ba Tư

Trong tiếng Ba Tư, tên các triều đại họ có tiếp vĩ ngữ "ian", hay "yan".

Hy Lạp

Để gọi triều đại, tiếng Hy Lạp gắn tiếp vĩ ngữ id. Tiếp vĩ ngữ này có nghĩa là "con của" hay "con cháu của", nhưng cũng có nghĩa rộng hơn là bao gồm luôn người cha, người tổ vào chung với các con cháu. "Id" đã được dùng một cách thường xuyên trong hai thiên anh hùng ca IliadOdyssey, viết vào khoảng năm 850 TCN, một thế kỷ trước khi La Mã lập quốc.

  • Các vua thuộc dòng dõi của vua Eurypon được gọi là nhà Eurypontid (ở Sparta). Eurypon không phải là người lập ra triều đại này, mà đã có hai vua trước ông.

Các thứ tiếng Anh, Pháp,… hay dùng theo lối này để gọi tên các triều đại ở Trung Á, Tây Nam Á, Bắc Phi,… Các cách gọi này cũng được dùng trong một số tài liệu ở Việt Nam.

Tiếng Hy Lạp cũng gắn tiếp vĩ ngữ iad':

  • Các vua thuộc dòng dõi của vua Agis được gọi là nhà Agiad (ở Sparta). Agis chỉ là con của người lập ra triều đại này.

La Mã

La Mã có nhiều giai đoạn vị lãnh tụ không được con nối ngôi, nên đời sau lấy tên hai người trong loạt lãnh tụ làm tên triều đại:

Nga

Ở Nga, tên các triều đại thường có tiếp vĩ ngữ "ovich":

Cũng có khi dùng họ làm tên triều đại:

Thời các đại lãnh địa thì tên của lãnh thổ được gọi làm tên triều đại (các đại lãnh chúa của Vladimir-Suzdal, các đại lãnh chúa của Niznij-Novgorod,…).

Pháp

Tiếng Pháp dùng tiếp vĩ ngữ "iens" có thêm chữ lót cho dễ đọc, nếu cần, gắn vào tên người coi là sáng tổ, để thành tên triều đại:

Thổ Nhĩ Kỳ

Ở Thổ Nhĩ Kỳ, tên các triều đại thường được lấy theo tên một trong những người tổ:

Trung Quốc

Bài chi tiết: Trung Quốc

Vào thời người Hán chưa có họ thì tên triều đại lấy theo dòng. Trong truyền thuyết Trung Quốc, dòng dõi vua Phục HiPhục Hi thị, dòng dõi vua Thần NôngThần Nông thị.

Bắt đầu từ thời Hiên Viên Hoàng Đế, các triều đại tại Trung Quốc thường là quốc hiệu, lấy theo nơi phát tích ban đầu của người khai lập thay vì lấy họ của vua như Việt Nam.

  • Nhà Hạ của họ Tự, vua Đại Vũ có công trị thuỷ được đế Thuấn phong ở đất Hạ
  • Nhà Thương của họ Tử, nguyên là nước Thương - 1 chư hầu thời nhà Hạ, tổ tiên là Tiết được vua Vũ phân phong.
  • Nhà Chu của họ , là triều đại lâu dài nhất trong lịch sử Trung Quốc, có nguồn gốc từ nước Chu - 1 nước chư hầu của nhà Hạ và nhà Thương. Ban đầu thụ phong ở đất Thai, sau dời đến đất Bân và cuối cùng chuyển qua đất Chu. Chu Thái Vương được xem là vua khởi đầu của triều đại này.
  • Nhà Tần của họ Doanh, tổ tiên là Phi Tử được Chu Hiếu Vương phong cho ấp Tần, sau khi Doanh Chính thống nhất thiên hạ vẫn giữ nguyên quốc hiệu.
  • Trần Thắng khởi nghĩa thời nhà Tần, làm chủ đất Trần thuộc nước Sở, nhưng đó không phải là đất Sính nguyên khai nước Sở mà là nước Trần cũ mà Sở mới đánh chiếm cuối thời Xuân Thu, do đó tự xưng là Trương Sở vương (vua đất Sở mở rộng)
  • Nhà Tây Sở của họ Hạng, Hạng Vũ sinh ra ở địa phận Tây Sở nên lấy nơi sinh làm quốc hiệu.
  • Nhà Hán, của họ Lưu, khởi đầu với vua Hán Cao Tổ, vốn được Tây Sở Bá vương Hạng Vũ phong ở đất Hán Trung, gọi là Hán vương. Khi chinh phục cả thiên hạ xong, ông giữ nguyên hiệu của nơi phát tích là Hán, chỉ nâng danh hiệu lên Đế.
Tất cả những triều đại từ sau nhà Hán đến hết nhà Tống đa phần theo nguyên tắc trên

Các ngoại tộc vào cai trị miền bắc Trung Quốc thời Ngũ Hồ thập lục quốcNgũ đại Thập quốc cũng lấy quốc hiệu theo nguyên tắc này.

Từ Nhà Liêu không lấy theo họ vua hoặc đất khởi nghiệp mà lấy nghề nghiệp và khoảng sản địa phương làm quốc hiệu, Liêu có nghĩa là luyện thép. Nối sau nhà Liêu, họ Hoàn Nhan người Nữ Chân cũng lấy quốc hiệu là Kim khi lập nước, Kim Thái Tổ cho rằng thép không bền mà vàng sẽ vĩnh cửu hơn nên mới đặt quốc hiệu như thế. Nhà Nguyên thuộc dòng Thành Cát Tư Hãn người Mông Cổ, vốn mang họ Bột Nhi Chỉ Cân; đế quốc Mông Cổ quá rộng lớn, vua Hốt Tất Liệt lấy hai chữ đầu tiên trong Kinh Dịch là Càn Nguyên làm quốc hiệu, gọi tắt là Nguyên.

Hai triều đại sau cùng của Trung Quốc cũng lấy tên Minh, Thanh không theo nguyên tắc truyền thống. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương ban đầu khởi binh ở đất Ngô, tự xưng là Ngô Vương, nhưng sau khi đánh đuổi nhà Nguyên lên Mạc Bắc đã đổi quốc hiệu là Minh. Nỗ Nhĩ Cáp Xích khởi nghiệp nhà Thanh năm 1616 vốn cũng xưng nhà Hậu Kim - ý nối tiếp nhà Kim thời Tống. Nhưng sau này Hậu Kim đã đổi quốc hiệu là Thanh, nguyên nhân do người Hán ghét người Kim nên Thanh Thái Tông mới lấy từ đồng vận để đặt quốc hiệu.

Triều đại duy nhất trong lịch sử Trung Quốc dùng cách số đếm như phương Tây là nhà Tần. Tần Thủy Hoàng cho rằng cách đặt thụy hiệu của nhà Chu là "con phán xét cha, bề tôi phán xét vua" là trái đạo, do đó bỏ cách đặt thụy hiệu mà đặt dùng số thứ tự từng đời: Thủy Hoàng, Nhị Thế, Tam Thế,…

Việt Nam

Bài chi tiết: Vua Việt Nam

Các triều đại ở Việt Nam thường mang tên của họ của các vua chúa (nhà Ngô thì các vua họ Ngô, nhà Đinh họ Đinh,…).

Cũng có trường hợp trong một triều đại có vua khác họ, như Triệu Việt Vương nhà Tiền Lý, Dương Tam Kha nhà Ngô hay Dương Nhật Lễ nhà Trần. Các vua này được gộp luôn vì trước và sau họ, dòng vua cũ (Lý, Ngô và Trần) lại được nối trở lại như cũ.

Ngoài ra, tên gọi nhà Tây Sơn lấy theo nơi phát tích dù các vua họ Nguyễn, được dùng trong Việt Nam Sử Lược là "nhà Nguyễn Tây Sơn".